LTS: Nhật báo Người Việt mở mục ‘Bạn đọc viết’ nhằm mời gọi quý thân hữu ‘cùng làm báo’ với Người Việt, chia sẻ những rung cảm, ý tưởng, quan niệm, hồi ức, kiến thức, kinh nghiệm,… về đời sống và xã hội. Để tham gia, quý bạn đọc vui lòng gởi email: [email protected]
Lê Quang Thông
“Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũÁo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn.”
(Thích Tuệ Sĩ)
Năm 1969 xong Tú Tài 2, chúng tôi, những đứa thân thiết trong suốt ba năm đệ Tam, Nhị, Nhất ở trường Quốc Học, tập họp nhau từ biệt đời học trò, sau lưng Đài Chiến Sĩ Trận Vong (ở Huế hay gọi là sân bia Quốc Học dù không dính gì đến lịch sử nhà trường, mà chỉ vì ở trước mặt trường).
Hơn 50 năm rồi. Bây giờ không nhớ rõ đứa nào có mặt. Không nhớ việc tổ chức, sinh hoạt ca hát, ăn uống thế nào. Chỉ còn trong ký ức, mục đùa vui sau cùng trước khi chia tay: đốt quần xanh, giã từ đời học trò.
Quốc Học hồi đó chỉ có nam sinh. Chuyện tuột quần dài xanh không có chi ốt dột vì toàn đực rựa với nhau. Chúng tôi nhảy múa quanh đống lửa đốt quần, ca hát… từ biệt ngôi trường thân yêu, dấn bước vào đời, mà bước đầu tiên là vào… Sài Gòn.
Đệ Nhất ban B năm đó có năm lớp từ B1 tới B5. Mỗi lớp có một nhóm, học hành được thầy khen bạn nể, do thực lực hoặc sắp hạng khi lãnh phần thưởng toàn trường. Phần lớn các bạn trong các nhóm nầy đều tính đi Sài Gòn. Mục đích giống nhau: thi vô Cao Đẳng Quốc Gia Phú Thọ, nạp đơn xin du học. Tôi nằm trong số đó.
Mong ước này, tôi có nói với Ba Mạ tôi. Ba Mạ tôi mừng vui khuyến khích, và hứa sẽ lo cho con trai đầu toại nguyện. Nhưng tôi biết rất khổ cho hai vị, nhất là trong thời buổi khó khăn. Nhà cửa hư hại nặng sau Tết Mậu Thân 1968 vẫn còn vá víu ở tạm. Ba tôi làm công chức ở Đà Nẵng, vô ra Huế, một cảnh hai quê. Mạ tôi như con thoi, mươi ngày Huế, mươi ngày Đà Nẵng. Cuộc sống nói chung không ổn định, làm sao lo thêm cho thằng con, một đứa nhiều mơ ước, không thực tế so với hoàn cảnh gia đình.
Hồi đó tôi làm gia sư ở nhà anh C, một sĩ quan cấp tá Binh Chủng Công Binh. Anh chỉ huy một đơn vị xây dựng các công trình cho quân đội.
Tôi chỉ huy bảy đứa con trai của anh chị tuổi từ 14 xuống 6 theo thứ tự: Việt, Nam, Thanh, Bình, Phước, Lộc, Thọ.
Bằng cách chia trách nhiệm dây chuyền. Tôi chú ý đến Việt, Việt lo cho Nam… và xuống lần đến Lộc lo cho Út Thọ, từ bài vở ở trường, ở nhà cho đến mọi sinh hoạt.
Không ngờ cách quản trị này rất hiệu quả. Việt, đứa lớn nhất thân thiết với tôi, phụ tá đắc lực cho tôi trong việc điều hành sáu đứa kia học, chơi, và sống hằng ngày.
Sau ba tháng, anh chị C. vui mừng thấy các con tiến bộ rõ. Đi học đem về điểm tốt và lời khen của thầy, cô. Ở nhà anh em vui vẻ, lễ phép với nhau. Phòng ngủ, bàn học, góc đồ chơi mỗi đứa… đều ngăn nắp đâu vào đấy.
O Gái, người quản gia, buổi tối thường hỏi tôi và bảy đứa sáng mai muốn ăn sáng món gì để mua. O rất thích chuyện tôi muốn ăn gì thì bảy đứa đồng lòng theo. Tôi ăn bánh canh thì bảy đứa hô lên bánh canh, bánh canh… kể cả cái miệng nhỏ xíu của Út Thọ.
Tôi nhận được nhiều món quà từ anh chị C. ngoài lương tháng: Một chiếc Vélosolex, những món tiền bất thường do anh chị hào phóng, mua ghi sổ tên anh bất cứ sách gì ở nhà sách Ưng Hạ, đường Trần Hưng Đạo…
Tôi nói với anh chị mơ ước đi Sài Gòn của mình và dĩ nhiên, mong được anh chị giúp đở. Gõ đúng cửa.
Trước hết, anh sẽ lo cho tôi chuyến đi bằng máy bay quân sự. Rồi sẽ gởi gắm tôi làm gia sư cho gia đình một ông cấp Tá, bạn của anh. Nói chung, ăn và ở… tôi khỏi bận tâm. Vậy thì còn gì phải lo nữa đâu? Lên đường thôi.
Tôi xin anh C. một thỏa thuận nhỏ: Anh chỉ liên lạc với người bạn anh, khi nào tôi gởi thư yêu cầu. Tôi muốn chuyện nhờ vả này chỉ được dùng tới khi tôi học ở Sài Gòn. Còn hiện tại chân trời rộng mở, tôi chưa muốn kẹt vô một tình huống nhất định.
Chuyến bay quân sự tôi đi là một chiếc DC3, bay Huế-Sài Gòn với nhiều trạm ghé, vì gặp đợt các sĩ quan đi học Cao Đẳng Quốc Phòng. Đó là lần đầu tiên tôi đi máy bay, biết cảm giác lộn ruột khi máy bay gặp lổ hổng không khí,… và ngồi trong máy bay bị dột do hơi nước đọng lại. Đi cùng chuyến có thằng bạn cũng dân Quốc Học, đi Sài Gòn chơi sau khi xong trung học. Bạn rủ tôi tá túc cùng bạn vài hôm đến lúc có chỗ ở lâu dài.
Máy bay xuống phi trường Tân Sơn Nhất lúc xế chiều, trời mưa tầm tã. Lên taxi về nhà dì của bạn, trời lại tạnh ráo, hé lên chút nắng. Dì ở một mình trong căn nhà xưa, kiểu nhà Tây, ngay sau lưng nhà thờ Tân Định. Bà vui vẻ niềm nở rất Sài Gòn. Sau khi hỏi các cháu ăn chiều chưa, bạn tôi lí nhí thưa đã ăn trong phi trường, bà chỉ phòng cho hai đứa rồi đi ra dãy quán mé đường ăn tối.
Chú họ tôi đang làm ở Bộ Canh Nông. Chú có hứa với ba tôi, sẽ cho tôi ở tạm khi vô Sài Gòn. Liền chiều đó tôi ghé nhà chú, đúng ra là căn gác nhỏ trong hẻm sâu góc Trương Minh Giảng-Trần Quang Diệu. Căn gác đủ chổ cho một cái giường đôi. Phía đối diện kê tủ áo quần, trên nóc tủ mấy cái va li chất cao nghệu. Nồi niêu son chảo treo ở ban công trước cửa ra vào phòng, cạnh bên cái lò nấu bằng dầu hôi, và xô nước.
Cô chú kéo tôi ra uống cà phê trước hẻm. Hỏi thăm tình hình ngoài Huế, sức khỏe của mọi người quen biết, lướt qua chuyện học hành, không nói chi chuyện ăn ở. Thực tế tôi cũng đã thấy, tốt hơn nên dừng lại ở chuyện thăm viếng, dấu luôn thư tay của ba tôi gởi chú. Tối đó, tôi trở về Tân Định hơi lo, chưa biết tính sao đây.
Sáng hôm sau tôi ghé thăm chú Tạ, một người hàng xóm, cấp bậc trung sĩ, nhân viên văn thư ở Tổng Nha Thanh Niên. Chi tiết này chú cho biết khi về Huế tháng rồi, nhân nói chuyện tôi sẽ đi Sài Gòn, sẽ ghé thăm chú.
Tôi được mời vô trong trạm gác cổng đợi chú Tạ, sau khi anh lính điện vào trong Tổng Nha. Chú rất mừng khi thấy tôi, và kéo ngay vào văn phòng nơi chú đang làm, giới thiệu đứa cháu vào thi kỹ sư Phú Thọ.
Mọi người, chừng hai viên cấp Tá, ba bốn người cấp Úy, và mấy cô nữ quân nhân, nhân viên dân sự đều vui vẻ, ân cần theo lối trịnh trọng của chú Tạ với thằng cháu Huế. Tôi mặt mày đỏ rực tận mang tai, rồi quen dần, lì ra, ăn nói trở nên hoạt bát giữa không khí vui nhộn, xởi lởi của người miền Nam. Hồi lâu, chú mới giục tôi chào mọi người, ra ngoài hành lang nói chuyện.
Chú hỏi tôi ở đâu, ăn đâu. Tôi tình thiệt kể chuyện hôm qua đi thăm cô chú họ ở khu Trương Minh Giảng. Chú bảo, chiều nay về đây ăn cơm, chú sẽ tính. Đừng lo.
Buổi chiều như chú dặn, tôi ghé Tổng Nha khi nhân viên đã ra về hết. Chú đợi tôi ở cổng. Sau một hồi giới thiệu trân trọng đứa cháu vô thi kỹ sư Phú Thọ với anh lính gác, chú dẫn tôi vào Tổng Nha. Nhưng lần này không vào phòng làm việc mà vòng ra sân phía sau, đi tới cuối góc tòa nhà, nơi um tùm một lùm cây dưới gốc hai cây cổ thụ. Sau lùm cây là một khoảng trống sạch sẽ, che chắn mặt kia bởi bức tường Tổng Nha, thành giang sơn của chú. Sát tường đậu cố định một chiếc xe Dodge quân đội phế thải, bên trong xe là nhà bếp, bàn ăn của chú.
Chú luộc rau, kho cá nục mới mua bên cầu Thị Nghè hồi trưa. Chúng tôi vừa ăn cơm vừa nói chuyện. Chú kể, ông Trung Tá trưởng phòng cho phép tôi ngủ lại ở Tổng Nha với điều kiện ra trước 7 giờ sáng và vô sau 7 giờ tối để khỏi gặp mặt nhân viên. Tối, ăn trên chiếc xe này, rồi treo mùng ngủ trên bàn, trong phòng làm việc.
Tội nghiệp chú Tạ. Suốt ngày hôm đó chú đã bận rộn theo thằng cháu hàng xóm. Từ việc xin ông trưởng phòng đến chạy tạt qua bên Thị Nghè mua cá. Tôi mừng vì tạm ổn nơi ăn ở, dù nghĩ tới chuyện giờ giấc ra vô Tổng Nha mà ngán ngẫm, nhưng hiện tại không có chọn lựa nào khác. Cứ hy vọng từ bước này ló ra chuyện mới vui hơn, may hơn.
Tôi bắt đầu cuộc sống đêm Tổng Nha Thanh Niên, ngày lang thang Sài Gòn. Năm ngày trong tuần trôi qua nhanh, cuối tuần thong thả hơn. Sáng Thứ Bảy, Chủ Nhật được dậy trễ, cùng chú đi coi đá banh ở sân vận động Hoa Lư, trước mặt Tổng Nha, đi Sở Thú, hay ra chợ Bến Thành ăn vặt các món phá lấu, bò bía, gỏi đu đủ thịt bò khô…
Tôi mướn chiếc xe gắn máy chở chú đi lễ chùa Ấn Quang, Việt Nam Quốc Tự, ăn cơm chay, và coi xe hoa trước Tòa Đô Sảnh. Có lẽ lần vui nhất của chú trong thời gian ở Sài Gòn là ngày và đêm lễ Phật Đản năm 1969.
Trong tuần, tôi ngồi học ở thư viện trường Văn Khoa. Trưa ăn cơm quán. Rồi trở về thư viện ngồi cho đến gần 7 giờ tối mới tà tà vô Tổng Nha.
Mấy anh lính gác đã quen mặt cháu ông Tạ, chào hỏi vui vẻ chiều vô, cũng như sáng ra. Vài ba hôm tôi dặn chú chỉ nấu cơm, rồi mua ở quán vài món… thay đổi.
Tôi quen dần với nhịp sống, ít thấy bất tiện mà ngược lại tự do, dễ chịu. Chú có tôi chuyện trò mỗi chiều, đở cô quạnh trong cuộc sống xa nhà.
Dựa theo thành bao quanh khu trường Đại Học Nông Lâm Súc, Đại Học Dược có quán cơm, nhìn qua phía bên kia đường là khu gia binh: cư xá Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống. Ở quán cơm bình dân này tôi gặp Tư.
Buổi trưa đầu tiên ghé quán. Tôi và Tư như bị điện giật. Tôi choáng váng nhìn Tư. Còn Tư, tôi chưa hỏi, nhưng mắt Tư đã nói tất cả: có gì đó cô đơn, có gì đó mong đợi, có gì đó lạc lõng trong cảnh quán xá này…
Nói Tư dáng thanh tú, đẹp quý phái thì cải lương quá, nhưng khó tìm ra cách mô tả nào chính xác hơn.
Thằng cu cỡ hai tuổi, chạy lúm đúm rất dễ thương. Vượt qua mặt Tư, hắn nhào tới đòi tôi bế. Các bà trong quán bắt đầu ghẹo Tư:
-Chu choa Tư ơi! Thằng cu tìm ra cha hắn rồi nè.
Tôi đưa thằng nhỏ cho Tư, nhưng hắn bấu chặt vào cổ tôi không buông. Mới gỡ được tay này, hắn siết tay kia. Các bà ré lên cười khoái trá. Tư đỏ hồng đôi má, còn tôi đỏ tận mang tai, như hôm được chú Tạ giới thiệu là kỹ sư Phú Thọ tương lai.
Tư phân bua:
– Trời ơi thằng nhóc. Mầy qua đây má, để cậu Năm ăn cơm.
Một bà cười vang lên, vỗ vai Tư:
– Mèn đét ơi ! Bà con hồi nào vậy cà. Không phải là:
“Người dưng khác họ,
Chẳng nọ thời kia…
Nay dìa mai ở
Tối ở quên dìa…”
Tư nghiêm mặt:
Con trai dì Lớn của Tư đó nghe. Dì Lớn theo chồng ra ngoài Trung từ hồi xưa. May có thơ qua thơ lại, nay anh Năm mới biết mà ghé thăm Tư, đứa em bạn con dì. Anh Năm mới ghé tức thì, ăn nói gì lung tung vậy.
Tư lanh trí hóa giải chuyện chọc ghẹo. Mấy bà hết hứng thú, ăn cơm xong kéo nhau rời quán. Tình huống quá lạ với tôi, một thằng 19 tuổi, mới đậu Tú Tài 2, chỉ biết ngồi trân ra nhìn cô em họ chưa hề biết. Thằng cu bám chặt cậu Năm. Cậu phải một tay cầm muỗng xúc cơm, một tay ôm hắn. Hồi lâu hắn ngoẻo đầu ngủ ngon trên vai cậu Năm, Tư mới bồng đặt nằm xuống divan ở góc quán.
Ăn buổi trưa xong, khách rời quán hết, Tư đóng các cửa chống phía đường, nhìn tôi:
– Về với Tư cho biết nhà nghe.
Tư bồng xốc thằng nhỏ và khóa cửa. Khi băng qua đường để vô cổng cư xá, tôi kéo Tư nói:
– Năm đi học bây giờ. Tư coi bộ mệt vì thức sớm. Về ngủ đi, tối Năm ghé.
– Năm vô cổng cư xá, qua ba đường ngang, tới đường thứ tư quẹo phải. Tư ở bên phải cuối đường, số 24…
Ngày tháng trôi qua. Những lần về trường Cao Đẳng Phú Thọ, tôi gặp bạn bè Huế rất nhiều. Đặc biệt Phước, cùng học Quốc Học, khác lớp nên không quen. Ngược lại, Phước biết và thích làm quen với tôi từ năm Đệ Tam, như Phước thành thật nói.
Chúng tôi hằng ngày đi thư viện với nhau một buổi. Sáng hay chiều, Phước đều ghé góc sân vận động Hoa Lư đối diện Tổng Nha Thanh Niên, đón, đưa tôi ở đó. Phước chạy chiếc Velosolex của bà chị ruột.
Đến hôm trường công bố nơi thi, số báo danh và phát thẻ thí sinh, Phước đón tôi sớm, đi về trường nhận thẻ. Trưa về lại góc sân Hoa Lư kiếm gì ăn và chiều học ở thư viện Văn Khoa.
Tôi đưa Phước đến ăn cơm ở quán Tư. Phước khen cô chủ xinh quá, sao lâu nay không nghe tôi kể. Rồi Phước đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Trước hết, thằng cu suốt buổi đu trên vai tôi, thỉnh thoảng nghe Tư hỏi:
– Cu thương ai?
– Xươn Nhăm
Thương Năm mà nó nói chớt thành Xươn Nhăm. Khi Phước hỏi nó theo giọng con nít.
– Nhăm đâu?
Thằng cu kéo tôi hun vào má rồi trả lời gọn lỏn:
– Nhăm nè.
Khi Tư đưa hai dĩa cơm tới, tôi giới thiệu Phước. Cách chào và đối đáp rõ ràng, lịch lãm của Tư làm Phước thắc mắc, tôi nói Phước ăn cho xong, rồi qua bên Văn Khoa, tôi kể cho Phước biết. Phước bất ngờ biến sắc nghe Tư dặn tôi, khi tới bồng thằng cu ngủ trên vai tôi.
– Tối nay Năm nhớ cởi giày, xắn quần. Nước mưa hôm qua vẫn chưa rút hết ở các đường trong cư xá.
Không kịp ra khỏi quán, Phước hỏi với miệng cười khôi hài
– Mi đổi tên Năm khi mô rứa?
Tôi tình thiệt:
– Mi tưởng tượng được không? Chưa tới hai tuần vô ở Tổng Nha Thanh niên, tau ghé quán, ăn trưa lần đầu, thằng nhỏ đeo tau như hôm nay. Đám khách các bà trong xóm xúm lại ghẹo Tư. Tư nhanh trí giới thiệu tau là Năm, con trai dì Cả của Tư, ngoài Trung ghé thăm.
– Rồi mi thăm đêm, thăm ngày Tư?
– Tau là một con người, một thanh niên… Phước ơi! Thoạt đầu tau thấy Tư đẹp. Rồi thằng nhóc và mẹ nó cho tau ấm áp gần gũi. Tau cũng có những thắc mắc như mi: vì sao Tư phải bán cơm?, vì sao Tư lưu lạc với con thơ giữa Sài Gòn rộng lớn? Xúc động hơn, khi Tư cho tau đóng vai Năm, con Dì Cả. Bài toán đặt ra rồi, phải tìm lời giải, nhất là đề bài từ một người đẹp như Tư.
Tôi kể cho Phước đêm đầu tiên tôi tới nhà Tư trong cư xá Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống. Hình ảnh đập vào mắt là bàn thờ chồng Tư trong quân phục. Tôi thắp đèn bàn thờ và đốt nhang kính cẩn vái một người không quen biết. Tôi không nhớ mình đã khấn vái những gì, nhưng khi cắm hương vào bát nhang, tôi chạm mắt vào ảnh thờ chồng Tư, mới thấy anh ta và mình khá giống nhau. Có thể từ đó giải thích vì sao thằng cu hót cứng lấy tôi, vì sao hắn nói liên hồi “xươn Nhăm” (thương Năm) mỗi khi được hỏi “thương ai.”
Tư người Nha Mân, đang học Đệ Tam, thì chàng trong đoàn quân Nhảy Dù hành quân qua vùng Đồng Tháp. Chàng phải lòng nàng và đeo đuổi đến lúc má Tư và các Cậu đồng ý cho cưới hỏi. Chàng đem nàng theo khắp bốn vùng Chiến thuật. Đến khi cấp chỉ huy chàng về Liên Binh Phòng vệ Phủ Tổng Thống, kéo chàng theo, chàng với nàng mới có một đời sống gia đình êm ấm. Một căn nhà nhỏ xinh xắn trong khu gia binh, một mầm non nhú trong bụng nàng.
Nhưng cuộc đời oái ăm: Tết Mậu Thân 1968 chàng tăng viện bảo vệ Thủ đô và tử thương dưới Chợ Lớn. Má Tư từ Nha Mân lên chăm sóc con gái sinh nở và cháu ngoại đến khi cứng cáp, giúp Tư sinh lực sống. Tư sang lại quán cơm, thuê một chị trung niên người Cao lãnh làm bếp, thêm hai người bưng bàn dọn dẹp, và Tư quản lý buôn bán tới bây giờ.
Phước đột nhiên:
– Và mi sẽ trở thành ông chủ quán cơm bình dân. Cho một dĩa ăn thêm đi Ông Chủ ơi!
Tôi đóng tiếp vở thoại kịch với Phước.
– Có liền, có liền… hổng thêm “thịch, chứng” gì há?
Phước tấn công:
– Rứa là mi cần chi học nữa. Mai e tau không cần đón mi hí. Thỉnh thoảng tau ghé quán, coi thử ông chủ gục chưa. Hèn chi mới mấy tháng nay mà tau thấy mi thay đổi từng ngày. Mi lụy vì tình rồi. Thử nhìn trong gương coi, mi nghĩ tau nói có đúng không.
Tôi chống chế:
– Chuyện xảy ra tình cờ, đâu phải do tau tìm kiếm.
Phước nó:
– Đúng, mi không tìm mà mi chìm: chìm đắm sa đà rồi. Tau có những buổi nhìn mi, không biết mi còn mấy chữ trong đầu. Mi húy hoáy viết rồi gạch xóa. Hay mi làm thơ? Được mấy bài ca tụng con gái Nha Mân rồi? Ngâm cho tau nghe với.
Tôi ngồi chết điếng với những lời châm chọc của Phước. Hắn nói y chang như tôi đã trãi qua. Càng làm thương tổn hắn nếu thú thật rằng tôi chỉ nằm trên bàn làm việc trong Tổng Nha chưa đầy hai tuần, rồi qua nhà Tư. Tôi vẫn ăn cơm chiều với chú Tạ vì sợ chú buồn. Nhưng đêm, tôi nói dối đến nhà bạn học, rời Tổng Nha Thanh Niên qua cư xá Liên binh Phòng vệ phủ Tổng Thống, đi thong thả như về nhà, dù có lúc phải xắn quần lội, vì nước chưa rút hết sau những chiều mưa lớn.
Tôi lúng túng trong tình trạng này nhưng khổ nỗi lý trí không đi chung với dịu dàng, mềm mại. Tôi cầu cứu Phước:
– Tình cờ gặp nhau dưới trường Phú Thọ, nhưng tau rất xúc động khi mi nói, đã muốn chơi thân với tau từ Đệ Tam. Mi có cách chi kéo tau ra khỏi xóm này tau nghe mi liền.
Phước rủ tôi đi uống cà phê. Hắn chân thành:
– Không có tình cờ hôm nay, thì tau làm sao biết được chuyện “đời cô Lựu” của mi. Tau hơn mi hai tuổi, nhưng trong nhà nhiều anh chị nên tau “đời” hơn mi. Tối nay tau sẽ nhờ bà chị kiếm gấp một căn phòng có cơm tháng. Tuần tới mi sẽ khô ráo, vì hết lội nước vô khu gia binh.
Ba ngày sau, Phước cho biết đã thuê được một căn gác trong hẻm ở Ngã Bảy Lý Thái Tổ. Chỗ nầy nấu cơm tháng luôn cho học sinh, sinh viên thuê phòng quanh xóm. Phước đã lấy chìa khóa, chúng tôi sẽ dọn vào thứ Hai tuần tới.
Một chuyện gay go đã giải quyết xong. Đến chuyện còn lại gay go hơn: từ giã Tư.
Tối chủ nhật tôi hẹn sẽ có điều ngạc nhiên cho thằng cu và Tư. Thằng cu có một món quà Trung Thu, để vừa chơi, vừa khoe “Nhăm cho, Nhăm cho.” Còn Tư có điều ngạc nhiên nào dành cho Năm không? Tư cười.
Tối Chủ Nhật, tôi từ giã chú Tạ. Chú muốn khóc khi tôi ôm chú cảm ơn. Tôi hứa sẽ lui tới thăm chú vào cuối tuần, rồi hồi hộp đi qua Tư.
Đèn nhà Tư thắp sáng khác mọi đêm. Bàn giữa nhà có mâm bánh Trung thu trong một vòng tròn nến. Thằng cu đang nằm sấp dưới nền nhà say mê nhìn nai, ngựa… chạy quanh trong chiếc đèn cù. Khi có đồ chơi, hắn không quan tâm đến ai. Tôi đưa hộp quà, hắn lơ đảng xé giấy gói, mắt vẫn không rời con ngựa đang chạy nước kiệu quanh lồng.
Chỉ đến khi hết lớp giấy gói, thấy chiếc xe đò Lục tỉnh, hắn ngồi dậy, vừa nổ máy bằng miệng vừa lái chạy quanh. Tôi nhìn Tư đang trìu mến nhìn con và nói mau:
– Tư ơi, ngày mai Năm dọn lên Ngã Bảy, xa Tư và thằng cu rồi. Hôm nay là đêm cuối ở đây, Năm không biết phải nói gì với Tư, chỉ mong Tư hiểu và đừng buồn Năm. Năm không có quà gì ngạc nhiên cho Tư, ngoài tin dọn nhà đột ngột này.
Tư mềm nhũn trong tay tôi với tiếng thút thít. Chúng tôi yên lặng ngồi bên nhau. Trong nhà chỉ còn vang tiếng máy nổ của chiếc xe đò Lục tỉnh mà tài xế là thằng cu đang chạy…
Rất lâu, chúng tôi phát hiện ra xe đò đã đến bến và tài xế đã ngủ khoèo bên chiếc xe. Tôi bế thằng cu vào giường và Tư tắt nến trên bàn. Chúng tôi nằm bên nhau yên lặng. Tư ôm chặt lấy tôi và thủ thỉ:
– Tư biết lúc chia tay sớm muộn rồi cũng sẽ đến. Năm đang có tương lai xán lạn trước mặt. Tư không có quyền cản trở Năm. Tư cũng không đủ sức “chắt chiu tháng tháng, cho chồng đi thi.” Huống gì không dễ kêu Năm được tiếng chồng với gia đình người Huế, theo như Tư biết lễ nghi, quan niệm sống ngoài đó, nhờ thời gian dài theo chồng đi quanh Vùng 1 Chiến Thuật.
Tôi yên lặng bên Tư. Biết nói gì thêm khi điều đó không sai chút nào. Éo le này tôi cũng đã cảm nhận từ buổi đầu đắm đuối. Hồi lâu Tư an ủi:
– Tư đã bán căn nhà này và đang tiến hành sang nhượng quán ăn cho chị bếp. Nội trong tuần tới Cậu Hai và má Tư sẽ lên, đem mẹ con Tư về Nha Mân. Đó là điều ngạc nhiên Tư dành cho Năm, mà lâu nay chắc chắn Năm không nghĩ tới.
– Tư ơi! Đúng vậy. Làm sao Năm nghĩ tới, Tư rời xa Sài Gòn. Năm chỉ nghĩ đến sau hôm nay sẽ rời xa Tư với lòng tan nát, nhưng mong Tư hiểu cho, tương lai của chính mình còn chưa biết về đâu, làm sao dám đèo bồng. Giờ nghe Tư nói, Năm mừng quá. Cảnh hai mẹ con Tư thui thủi giữa Sài Gòn chạnh lòng Năm lắm.
Chúng tôi quấn quýt nhau. Tôi lại bông đùa cho Tư vui:
– Vậy là thằng Năm con Dì Cả tuần tới gặp má Tư, em má mình.
– Đừng giỡn. Má tính tình như Tư. Nhưng có cậu Hai đó, đừng có lằng nhằng. Cậu nghiêm lắm đó Năm.
– Cậu và Má Tư sẽ đến ngày nào tuần tới?
– Chậm nhất là sáng thứ Năm
– Vậy, tối thứ Tư, Năm thăm thằng cu lần sau cùng nghe?
– Đừng có ham. Xe Miệt Dưới lên, phải ngủ ở ven Xa cảng, sáng mới được vô Thủ đô. Nhiều khi tình hình yên, họ cho đi thẳng. Cậu và Má về đây, thấy Năm kỳ lắm. Thôi Năm, đừng làm hư bột hư đường.
Yêu thương nhau ở chỗ này nè, Tư chỉ trên đầu.
Và chỗ này nữa nè: Năm chỉ vô tim.
Ánh sáng trăng Đêm Trung Thu vằng vặc qua song cửa bỗng kéo vệt dài theo cái nguýt của Tư…
Cái nguýt của Tư lẽo đẽo theo tôi trong những ngày mới tới ở Ngã Bảy Lý Thái Tồ. Tôi buồn rũ rượi, thần sắc xuống rõ rệt. Thêm thời tiết sáng nắng chiều mưa Sài Gòn làm tôi cảm nặng, nằm li bì suốt tuần. Tội nghiệp Phước lo mua thuốc, cháo gạo với cá kho khô cho tôi hằng ngày. Tôi khỏe trở lại rất nhanh.
Ngày thi, Phước bên trường Dược, tôi bên Văn khoa. Bài thi làm gọi là, không vừa ý lắm. Trong những ngày chờ đợi kết quả, Phước chở tôi loanh quanh Sài Gòn, nhưng tránh không đi ngang khu Tổng Nha Thanh niên, cư xá Liên binh Phòng vệ Phủ Tổng thống…như những nơi đó thuộc một đoạn đời đã trôi ra biển.
Tôi nhận thư nhà kêu về Huế gấp, cho kịp thi vấn đáp vào Đại học Sư Phạm Toán. Phước chờ ngày vào trường Sĩ quan Hải quân.
Chúng tôi chia tay nhau và không hề gặp lại.
Năm cũng không bao giờ gặp lại Tư, người đàn bà Nha Mân, người đã cho Năm những giây phút êm đềm đắm đuối đầu đời.
Frankfurt, Germany!