Phan Đức Minh/SGN
Một triết gia đã nói: Nhìn lại quá khứ gian lao để biết yêu quý hiện tại và tin tưởng ở tương lai…
Ba hồi kẻng báo thức vang lên, tôi bật dậy như cái máy.
Suốt cuộc đời ba chìm bảy nổi, chín cái lênh đênh, từ lúc 15 tuổi bỏ trường học đi kháng chiến, đánh Tây, chui hầm, rúc hố, hai lần bị Tây bắt nhốt vào tù, rồi 23 năm lính, hơn 12 năm tù cải tạo, phiêu bạt giang hồ qua bao nhiêu trại giam, toàn là rừng với núi âm u, hiểm hóc, giáp biên giới Lào, bao phen chết lên chết xuống, cho tới lúc này, 90 tuổi rồi, đang sống ở Mỹ, tôi vẫn không ghét cái gì bằng ghét những tiếng kẻng báo thức ác ôn, khốn nạn đó.
Nó báo hiệu bắt đầu một ngày lao động kinh khủng trong cái đói khát, khổ sở, nhọc nhằn đến tận cùng của cuộc đời.
Tất cả chung quanh đều tối om. Ngọn đèn dầu duy nhất là chiếc lọ đựng thuốc, đốt bằng dầu cặn, lớn cỡ quả trứng gà, thường treo ở góc tường phía trước cầu tiêu cuối phòng đã tắt ngủm từ lúc nào vì lượng dầu không đủ cho một đêm thắp sáng. Có tiếng la chí choé vì thằng nọ đái vào thằng kia.
Vì tên ngồi trên bồn cầu tiêu chưa kịp lên tiếng thì đã bị thằng đứng phía dưới, kẹt quá… đi một đường vòng, tưới ướt sũng từ cổ trở xuống. May mà tay kia vì ngồi trên cao cho nên mắt mũi, mồm miệng chưa phải lãnh cái thứ nước ghê gớm đó của tù cải tạo, tích tụ cả đêm.
Cảnh náo loạn này thường xuyên xảy ra vì tay nào cũng khôn ngoan, kinh nghiệm đầy mình, cứ thức dậy sớm hơn người khác một tí là phải lò mò, rón rén trong cái tối đen như mực Tầu, lần vào cái cầu tiêu duy nhất ở cuối phòng…
Nếu không, khi kẻng báo thức vang lên là gần một trăm tên tù cải tạo của nhà 10, cái nhà nhốt những tên bị coi là “ác ôn côn đồ thượng hạng”: chức vụ cao, có thành tích “chống phá cách mạng,” nhiều phen bị nhốt chuồng cọp vì đủ thứ việc… sẽ đổ xô vào cái nhà cầu chỉ có hai bàn cầu dành cho việc “đại sự,” còn “tiểu sự” thì cứ tưới xuống cái rãnh trước bồn nước, do tên tù trực phòng gánh nước giếng đổ vô đó từ chiều hôm trước.
Đèn điện bật sáng 10 phút cho đám tù dọn dẹp đủ thứ trên cái “lãnh thổ” dành cho mỗi tên: chiều dài hai mét theo bệ xi-măng, chiều ngang đo đúng ba gang tay của tôi. Khi ngủ mà nằm ngửa là đụng hoặc đè lên đứa bên cạnh cho nên ban đêm chỉ có cách nằm nghiêng mà thôi.
Cái bệ xi-măng làm giường ngủ là ở trình độ cao cấp nhất, do công an “phát minh” ra. Những năm đầu, quân đội nhân dân quản lý tù, người ta cho tù ngủ trên những cái sạp đan bằng nứa, tre rừng hoặc cây nhỏ. Xài kiểu giường này, dân tù nhà ta dù có đập chết vẫn tìm cách giấu giếm, gùi nhét đâu đó vài ba mẩu giấy linh tinh, mấy thứ đồ “quốc cấm, nguy hiểm, bí mật”. Công an phát minh giường bằng bệ xi-măng thì tù chỉ còn có nước… khóc mà thôi, nhét cái gì xuống bệ xi-măng được bây giờ?
Tíếng khóa mở cửa, rồi tiếng kéo cây sắt chặn ngang bên ngoài kêu rầm rầm. Tên tù trong Ban trật tự trại (có gốc con ông, cháu cha nón cối, hay có dây mơ rễ má với cán bộ của trại) quát to: “Nhà 10 ra tập họp điểm danh, mau lên!”.
Những con người vọt ra, đứng sau hàng rào kẽm gai, vặn mình vặn mẩy, vung tay vung chân cho khỏi mỏi sau một đêm ngủ theo cái kiểu co quắp, úp thìa (xếp muỗng) vì vùng núi ban đêm thường lạnh. Mùa đông thì thôi, lạnh khỏi nói, lạnh muốn chết luôn.
Ba hồi còi rít lên, tất cả dân tù ngồi chồm hỗm xuống đất, mười tên một hàng cho cán bộ trực trại điểm danh, ghi sổ. Xong màn điểm danh, một số chạy vô trong nhà lo dọn dẹp, chuẩn bị lãnh khoai sắn, đồ đem theo đi lao động. Riêng tôi, cái bao cát có quai đeo, của vợ con gửi cho khi “thăm nuôi” đã sống chết theo sát bên tôi bao nhiêu năm rồi, không nhớ nữa. Công an mà nghe nói “thăm nuôi” là có chầu bị “hỏi thăm sức khoẻ” vì Đảng và Nhà Nước có để cho ai đói đâu mà phải “nuôi”, phải nói là “đi thăm” mới đúng chính sách.
Trong túi là phần khoai sắn ăn trưa nhét trong cái lon ghi-gô đen sì, nham nhở vì đã qua nhiều phen “trận mạc, khói lửa”. Đó là cái lon đựng sữa bột Guigoz cho con nít trước 1975 được tôi dùng làm nồi niêu, soong chảo, nấu nướng đủ thứ trên đời, bất cứ thứ gì kiếm được và ăn được.
Ngoài ra trong cái bao còn có bi đông nước, lãnh theo tiêu chuẩn nhà bếp, uống cho một ngày, một túi ni lông để nếu hoàn cảnh cho phép thì “cải thiện” tức là kiếm chác tí rau hoang, cà dại, con cóc, con nhái bỏ vô, đến trưa nghỉ giải lao, tìm cách xoay sở biến thành thức ăn bồi dưỡng, không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc, miễn sao đừng ngộ độc là được rồi!
Một số anh em vọt ra phía cầu tiêu công cộng, có khi để “giải quyết bầu tâm sự” mà cũng có khi liên lạc, trao đổi dấm dúi cái này cái nọ với bạn bè ở nhà khác hay với đám tù hình sự… Phải đóng tuồng cho khéo, kẻo công an hay đám ăng-ten (bọn tù được công an tuyển chọn, cho hưởng đặc ân: lon gạo, miếng thịt, miếng cá mỗi tháng để giao nhiệm vụ theo dõi và báo cáo về mọi hành động lén lút, vi phạm nội quy) biết được thì cuộc đời khốn nạn ngay.
Rồi một hồi kẻng dài điểm thêm ba tiếng kẻng đằng sau là chúng tôi ào ra cổng trại, ngồi chồm hổm trên cái sân đất rộng, xếp hàng điểm số, đi lao động. Tên công an trực trại, ngồi trong “lô cốt” dò sổ rồi kêu: Nhà 10! Chúng tôi bật dậy, ra cổng, thứ tự hàng một theo sự điều khiển của tên tù Đội Trưởng hay Đội Phó (được công an tuyển theo tiêu chuẩn của chúng), đếm số rồi bước ra khỏi cổng.
Mấy tên trực dụng cụ chạy vào kho nhận và vác theo mấy bó dao đi rừng. Hôm nay, Nhà 10 chúng tôi có nhiệm vụ đi lấy mây, tiêu chuẩn tối thiểu 70 cây, dài hai mét. Nghe qua thì coi bộ ngon ăn, nhưng tìm cho ra khu rừng nào có mây hay còn mây sau hàng chục năm bị tù càn lui, quét tới, quả thực không phải chuyện dễ.
Dao rừng phải cột lại thành từng bó, tới địa điểm do công an quyết định mới được tháo ra, phát cho từng người. Phát trước, sợ tù dùng làm vũ khí… “hỏi thăm sức khỏe” bọn công an áp giải. Trại của chúng tôi đã có một vụ âm mưu nổi loạn, cướp súng, giết công an, đốt trại rồi kéo nhau qua biên giới Lào, ngay sau vụ Trung Cộng kéo quân sang đánh phá sáu tỉnh miền Bắc hồi đầu năm 1979 (vì Trung Cộng muốn dạy cho Hà Nội “một bài học” khi dám theo đuôi sư phụ Liên Xô đem quân sang Căm-Bốt oánh cho bọn cầm quyền Khờ-Me đỏ, con đẻ của Trung cộng, rách như cái mền).
Âm mưu nổi loạn ở trại bị bại lộ, cộng sản đã lập “Tòa án nhân dân” ngay tại trại, xử tử hình tay sĩ quan cầm đầu, còn lại thì lãnh án từ 15 năm tù trở lên cho đến chung thân khổ sai.
Tôi nhớ trung úy Nguyễn Văn Sĩ, Biệt Động Quân, Trưởng Ban tuyên truyền, khi bị bắt đã không khai ra tôi, chắc nó thương tôi, chớ không phải nó quên. Vì quên làm sao được khi có tin tức chi, công việc ra sao, nó cũng chớp nhoáng cho tôi hay để lo liệu, ở ngay góc đống rác cạnh hàng rào kẽm gai ngăn Nhà 10 của tôi với Nhà 11 của nó, khi chập choạng tối, sau khi điểm danh và trước khi tù phải vào phòng để khoá cửa sắt…
Ít lâu sau nó được thả ra, về Sài Gòn rồi cưới vợ, cưới cô con gái thương yêu nó hết mình. Chưa cưới hỏi chi cả mà cứ sáu tháng một lần, cô ấy từ Sài Gòn ra Trung, lên núi thăm nó, mối tình sao mà cao đẹp đến thế! Vậy mà khi điều tra ra, nó bị công an Sài Gòn bắt lại, từ giã người vợ thương yêu, bị đưa về trại cũ, đánh đập, tra khảo tàn nhẫn, bắt khai ra số người đã liên lạc với nó, nhưng nó đã không khai tôi vào số đó.
Tôi chỉ biết thầm cảm ơn và cầu xin trời đất phù hộ cho nó mà thôi vì sau đó, nó bị tống vô xà-lim. Tôi chẳng bao giờ gặp nó nữa, trừ một lần cuối cùng nó bị điệu ra trước “Tòa án nhân dân” lập ngay trong trại, xét xử theo “luật rừng”.
Mỗi khi lên rừng lấy mây, tôi thường đi đôi với thằng bạn thân, đại úy H. trước làm ở Tiểu khu Quảng Nam. Nó ít tuổi hơn tôi, cấp chức cũ cũng nhỏ hơn nên nó gọi tôi là bác. Còn tôi cứ gọi hắn bằng tên cho thân mật. Thằng bạn này thuộc loại “số đỏ” bởi vì có hai vợ mà khi đi tù, cả hai bà đều “nhất trí cao” coi nhau: vợ cả, vợ hai, hai vợ đều là vợ cả. Hai bà vẫn một lòng chia sẻ với nhau anh chồng chung như thuở nào, thay phiên đi thăm nuôi đàng hoàng.
Bữa nay, anh bạn đại úy H. bị đau, ói mửa cả đêm. Trạm y tế cho nằm nhà, nhưng phải quét dọn vệ sinh trong phòng và chung quanh. Cán bộ bảo “Đi học tập cải tạo là không được phép đau. Mà nếu đau thì cũng phải cố gắng lao động nhẹ, chớ nằm một chỗ là con người hư hỏng, bết bát rồi chết luôn”.
Nói đến H, tôi chợt nhớ đến câu chuyện về hai người bạn hay đi lao động cùng toán với tôi:
– Anh thứ nhất: to cao, có lòng giúp đỡ bạn bè, khi đi nhổ sắn, về gần đến cổng trại, anh thường dúi vào gánh của tôi vài củ sắn, cho… đạt chỉ tiêu. Lại nhớ có một hôm anh em đeo ba-lô đi gùi những mảnh sắt thép tại một địa điểm có vài chiếc xe của quân đội miền Nam cũ phá bỏ, nằm ụ đống. Công an cho một nhóm tù có tay nghề tới tháo, cưa kéo thành những mảnh nhỏ rồi gùi, cõng về trại để thợ rèn làm thành những con dao đi làm rừng. Một bữa đi cõng sắt vụn về trại, dọc đường hắn thấy tôi mệt muốn lè lưỡi, bèn ghé sát cạnh tôi mà phán: “Coi bộ ngài quan tòa nhà ta sắp xụm bà chè mất rồi. Thôi! Để mình gùi bớt cho một mảnh!”
– Anh thứ hai: một bữa đi nhổ sắn, lúc gánh lên đỉnh đồi, ngồi nghỉ, lấy sức xuống dốc, tìm gói đồ ăn quý hóa gia đình gửi cho, buộc ở thắt lưng bằng dây rừng, thì gói đồ ăn đã rơi đâu mất tiêu. Chắc là mất trong khi len lỏi trong rẫy sắn, chặt cây, nhổ gốc, chặt củ, xếp vô quang gánh đầy ụ, gần 50 kílô, ngày làm hai chuyến.
Bọn chúng tôi ngồi quanh đó phải bóp mồm, bóp miệng, mỗi đứa góp cho cậu ta miếng khoai, miếng sắn để “cứu nguy dân tộc”. Buồn quá, anh ta bèn hát mấy câu đầu của bài “Quốc Tế Ca”: “Vùng lên! Hỡi các nô lệ ở thế gian! Vùng lên hỡi ai cực khổ bần hàn…”. Vậy mà tối về trại, công an quản giáo lôi anh ra hỏi tội: “Tại sao anh lại hát như thế?”…
Ấy chết! Đang nói chuyện lên rừng lấy mây. Thằng bạn đau nằm nhà, tôi lên rừng một mình theo hướng đi thường lệ. Bắt đầu tới con suối nhỏ, tôi quan sát thấy mấy đám cát trắng bên bờ giáp bìa rừng có vô số dấu chân thú rừng, ban đêm mò xuống suối uống nước.
Theo kinh nghiệm của dân vùng núi mà tôi học được thì dấu chân hầu hết là của bầy heo rừng, nhưng cũng có cả dấu chân của “ông Ba Mươi” tức là Cọp. Tôi hơi ngán, nhưng hoàn cảnh này không ai cho phép ngán cả. Tôi leo lên núi, đi dọc theo con suối chừng gần cây số, ngó lên cao thấy có bóng dáng lá mây quen thuộc.
Tôi dừng lại ở điểm đó, không vào sâu nữa, rồi leo ngược dốc đi thẳng lên, lấy tiếng suối róc rách làm hướng cho khỏi lạc, thỉnh thoảng vung con dao rừng chặt một mảng vỏ thân cây lớn đánh dấu đường đi, để còn biết đường mà ra. Càng leo lên núi cao, cây cối càng chằng chịt, nhưng như thế mới dễ có mây. Trời đất không nỡ hại tôi, một vùng mây chằng chịt hiện ra trước mắt.
Mây nằm la liệt dưới mặt đất, mây leo lên tuốt cây cao, toàn mây là mây thôi. Đúng là “kho vàng của Hoàng đế Salomon thời Cổ La Mã rồi!”. Tôi mừng hết lớn, bèn ngồi xuống hòn đá to bự để thở. Bỗng có tiếng sột soạt càng lúc càng rõ ở hướng trước mặt tôi. Chết! Thú dữ đuổi theo con mồi nào đó! Tôi núp vào sau một thân cây to, dựa lưng vào cây, thủ con dao rừng thật chắc trong tay, sẵn sàng liều mạng. Tôi chợt thoáng nhớ tới câu “Plutôt souffrir que mourir – Thà khổ cực còn hơn là chết” của La Fontaine thì phải, trong bài thơ “La Mort et le bûcheron” (“Thần chết và người tiều phu đốn củi”), coi bộ thích hợp trong hoàn cảnh này.
May quá, con thú dữ đuổi mồi đã vòng theo hướng khác, xa dần… Tôi ra khỏi chỗ núp, quan sát rồi bắt đầu lấy mây. Với con dao rừng, tôi rút những sợi dây mây nằm ngổn ngang dưới đất, lẫn lộn với lá rừng đã khô, mục nát vì mưa gió, róc bỏ vỏ ngoài, chặt một đoạn dài 10 gang tay, tức là dài hai mét đó.
Đo đạc kiểu tù mãi cũng quen và chính xác đáo để! Cứ kéo rồi róc vỏ và chặt một hồi, vứt mỗi chỗ mươi đoạn, tôi đoán chừng đã được già nửa số ấn định. Đói và mệt quá, tôi tìm một hòn đá ngồi thở ra và lôi mấy miếng sắn luộc lạnh ngắt, thâm sì trong lon ra ăn, không có nó thì chỉ có nước chết mà thôi.
Thấy đã hồi sức, tôi lại rút mây, lấy dao róc vỏ khô và chặt tiếp. Khi kiểm lại thấy đủ số, tôi chặt dây rừng, buộc chặt làm ba bó nhỏ rồi cứ vác từng bó phóng dần xuống phía chân núi, nghe loáng thoáng có tiếng nước suối chảy róc rách. Có bó theo dốc trượt xuống ngon lành từng quãng. Có bó mắc dịch, mới trượt được vài mét đã mắc kẹt vào cây chằng chịt, làm tôi lại phải tới nơi, lôi ra và phóng xuống.
Con suối đây rồi! Ba bó mây nằm ba chỗ, chênh vênh trên những mỏm đá. Đồng hồ đeo tay đã bị công an tịch thu khi mới vô trại cho nên tôi không đoán rõ được giờ giấc, chỉ biết… cố gắng phấn đấu di chuyển từ mỏm đá này sang mỏm đá khác, gom ba bó mây lại, cột chung thành một bó to bự, cột chặt hai đầu, thêm vòng dây cột ở khúc giữa cho chắc ăn.
Nghỉ một lát lấy sức tôi thả bó mấy bự xuống suối cho dòng nước đẩy đi và chỉ việc giữ cho chắc hai sợi dây rừng để điều chỉnh cho bó mây trôi xuôi, ra ngoài rừng. Thật là khó khăn, trơn trợt với mấy mỏm đá rêu xanh, lắm lúc muốn té ngữa.
Mấy miếng sắn luộc thâm sì, lạnh ngắt, chua lè được đưa vào bao tử hẳn hoi, đàng hoàng mà sao lúc này chúng nó đi đâu mất. Đói lại hoàn đói, đói muôn năm… Ngó quanh, ngó quẩn chẳng thấy có giống chi ăn được, tôi bẻ đại một chùm trái cây lạ hoắc sà xuống bờ suối, trái to bằng đầu ngón tay. Tôi làm thử một trái rồi nghe ngóng. Làm tiếp trái thứ hai, trái thứ ba… chẳng chết thằng Tây đen nào cả sau vài ba phút. Tôi dư biết là dù có chết, cũng chưa đủ thời gian để cho cái chết nó tới. Cái đói nó xúi tôi: cứ ăn đại, ăn tới đi, đói chịu chi cho nổi, ra khỏi rừng còn phải vác bó mây dài, to tổ bố về trại nữa mà. Thế là tôi làm luôn một bụng…
Hình như tất cả mọi sự học hành lẩm cẩm ở nhà trường ngày xửa ngày xưa, chỉ có hai điều giúp ích cho tôi trong cuộc sống trong các trại tù cải tạo của bọn nón cối, dép râu. Đó là cái “Principe d’Archimède – Nguyên Lý Archimède” cuả môn Physique – Vật lý ở bậc trung học. Nó chỉ cho tôi biết cách lợi dụng sức nước đẩy lên đối với một vật được thả xuống nước.
Do đó, khi di chuyển cây cối làm cột nhà hay di chuyển bó mây dài và to bự như thế này, mà cứ vác trên vai, đi suối, đi rừng, rồi hàng chục cây số, không nhờ tới nước suối giúp đỡ để nâng lên và đẩy đi, kéo được quãng nào hay quãng đó, thì chắc là tôi đã chết quách từ lâu rồi.
Điều thứ hai là cái bài học “Dilatation des corps – Sự giãn nở của các chất”. Nhờ cái này mà tù chúng tôi, khi làm đường, làm nhà, chỉ bằng chân tay, với con dao, con rựa, cái búa, cái liềm mà có thể phá tan những tảng đá to như một cái xe hơi. Tù chúng tôi chất cây khô chung quanh tảng đá, tìm cách đốt lửa lên. Đốt cho… đã đời ông địa thì tảng đá cũng phải giãn nở ra chớ! Coi bộ được rồi, tù nhà ta lấy thùng gánh nước suối tới, đứng xa xa một tí rồi hiên ngang, anh dũng hắt vào tảng đá. Thế là đá cứ việc tự nhiên mà nứt, mà bể ra, kêu đôm đốp! Tù cứ việc dọn dẹp, gồng gánh cho đến khi tảng đá bự chảng biến mất.
***
Tôi giật mình thức dậy, hai tay quờ quạng chung quanh. Cái giường nệm êm êm, rộng rãi, cái mền ấm áp, chớ không phải sàn tre, sàn nứa, không phải bệ xi-măng của những trại tù cải tạo hơn 12 năm kinh khủng đã đi sâu vào dĩ vãng… Miền Nam sụp đổ, tôi cũng như hàng triệu người khác, trong hàng ngũ chống cộng sản đã bị đẩy vào những trại tù cải tạo như thế.
Không ai thoát, chỉ có kẻ lâu, người mau, về hay chết luôn trên rừng trên núi mà thôi. Lâu lâu, tôi lại thấy cái cảnh lao động khổ sai kinh hoàng và cuộc sống thua kém cả súc vật vẫn trở lại với tôi trong những giấc ngủ không mấy ngon lành.
Tôi đã 90 năm được sống làm người rồi còn chi! Khi thức giấc, thấy mình đã thoát khỏi cảnh kinh hoàng ghê gớm đó, thấy mình đang sống trong khung cảnh tự do trên đất Mỹ, không còn bị cảnh đói khát, rét mướt cắt da, mưa nắng dãi dầu, lao động quá sức chịu đựng, không còn bị hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần, hết bị những cặp mắt cú vọ của công an và cả một số bạn bè bị công an tẩy não, hù dọa, biến thành “ăng-ten, do thám”, tôi lại âm thầm cảm tạ Thượng Đế đã cho tôi sống, cho tôi cơ hội dạy học trở lại suốt năm năm chờ đi định cư nước ngoài, không phải tiếp tục lao động khổ sở để kiếm sống như một số bạn tù cũ của tôi.
Tôi cảm ơn vợ con, gia đình, bạn bè, đã tiếp cho tôi nghị lực, thức ăn, đồ uống, niềm hi vọng, để đủ sức mà sống trong những ngày tháng đó, dù nhiều phen tôi thật sự vô cùng tuyệt vọng.
Khi tôi từ giã rừng núi trở về, mọi người thân yêu còn đủ, không mất vợ, mất con, gia đình tan nát như một vài người bạn bất hạnh khác. Con cái tôi ngoan ngoãn, hiếu thảo, một lòng gắn bó, chung sức với mẹ để cùng gánh vác gia đình trong những tháng ngày ba chìm, bảy nổi.
Tôi cảm ơn chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ đã mở rộng vòng tay đón nhận chúng tôi là những người tị nạn cộng sản, cho thế hệ chúng tôi được sống yên lành những ngày còn lại, trước khi tàn lụi và qua đi, nhường lại cho thế hệ con cháu cơ hội sống, làm người, hữu ích cho Quê Hương Đất Nước Việt Nam mai sau, cho xã hội loài người văn minh, tiến bộ, tốt đẹp hơn trên con đường tương lai.
(San Diego, California)